Nần nghệ Tuệ Linh http://nannghe.vn Hỗ trợ giảm mỡ máu, giúp tăng sức bền thành mạch, hỗ trợ giảm huyết áp Tue, 21 Jul 2020 06:34:51 +0000 vi-VN hourly 1 https://wordpress.org/?v=5.3.2 http://nannghe.vn/wp-content/uploads/2020/04/cropped-fav-nn-32x32.png Nần nghệ Tuệ Linh http://nannghe.vn 32 32 Tổng quan về cây Giảo Cổ Lam http://nannghe.vn/tong-quan-ve-cay-giao-co-lam-1006/ http://nannghe.vn/tong-quan-ve-cay-giao-co-lam-1006/#respond Mon, 27 Apr 2020 07:27:22 +0000 http://nannghe.vn/?p=1006

Tên tiếng Việt: Giảo cổ lam

Tên khoa họcGynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino

Tên khác: Cổ yếm, Giảo cổ lam, Dền toòng

Họ: Bí (Cucurbitaceae)

A. Mô tả 

  • Dạng cây thảo có thân mảnh, leo nhờ tua cuốn đơn ở nách lá. Cây đực và cây cái riêng biệt, lá khép kín hình chân vịt.
  • Cụm hoa hình chùy mang nhiều hoa nhỏ màu trắng, các cánh hoa rời nhau xòe hình sao, bao phấn dính thành đĩa, bầu có 3 vòi nhụy.
  • Quả Giảo cổ lam khô hình cầu, đường kính 5-9mm, khi chín màu đen.

B. Phân bố

Loài cây này mọc nhiều ở độ cao trên dưới 2000m so với mặt nước biển, trong các khu rừng thưa, ẩm thấp, khí hậu lạnh quanh năm bao gồm: Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Nam Trung Quốc, các tỉnh vùng núi phía Bắc của Việt Nam.

Riêng tại Việt Nam, khi tiến hành cuộc khảo sát dược liệu tại Fansipan, các nhà khoa học Việt Nam đã phát hiện một quần thể rộng lớn cây Giảo cổ lam mọc hoang ở độ cao 1500m thuộc dãy Hoàng Liên Sơn. Theo thông tin thu thập được, người dân nơi đây đã dùng cây này từ nhiều đời nay nhằm tăng lực, chống mệt mỏi khi đi rừng, tăng cường sức khỏe. Mẫu cây này sau đó được gửi đến Viện Dược liệu Trung ương và đến các phòng nghiên cứu thực vật lớn trên thế giới và xác định đúng là cây Gynostemma pentaphyllum. Qua nghiên cứu cho thấy, giảo cổ lam Việt Nam có chất lượng tương đương với giảo cổ lam của Nhật Bản và Trung Quốc. Đặc biệt, công ty TNHH Tuệ Linh đã phát triển thành công 1 vùng trồng Giảo cổ lam 5 lá quý hiếm (Ngũ diệp sâm) rộng 5 ha đạt chuẩn thực hành tốt trồng trọt và thu hái của Tổ chức Y tế thế giới (GACP – WHO) tại Mộc Châu. Được biết, đây chính là giảo cổ lam mà các quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc đặc biệt ưa chuộng. Kể từ khi phát hiện ra Giảo cổ lam vào năm 1997, GS.TS Phạm Thanh Kỳ (Thầy thuốc nhân dân, nguyên hiệu trưởng ĐH Dược Hà Nội) đã đăng ký đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước. Cho đến nay, GS.TS Phạm Thanh Kỳ cùng với các nhà khoa học Viện dược liệu, Bộ môn Dược lý Trường đại học Y Hà Nội và công ty TNHH Tuệ Linh đã phối hợp nghiên cứu làm rõ tác dụng hạ đường huyết, mỡ máu và huyết áp của cây thuốc quý này.

Vùng trồng Giảo cổ lam 5 lá (Ngũ diệp sâm) lớn nhất Việt Nam đạt chuẩn GACP-WHO tại Mộc Châu

C. Bộ phận dùng: Toàn cây

D. Thành phần hóa học:

  • Thành phần hoạt chất chính của Giảo cổ lam: Saponin, flavonoid, polysaccharid.
  • Saponin: Trong GCL có chứa hơn 100 loại saponin cấu trúc triterpenoid kiểu Dammaran (gồm 4 vòng và một mạch nhánh), gọi chung là các gypenosids, trong đó có 4 saponin có giống cấu trúc giống hệt saponin trong nhân sâm, 11 saponin có cấu trúc tương tự như saponin trong nhân sâm. Ngoài ra, giảo cổ lam còn chứa các acid amin tan trong nước, các vitamin, nhiều nguyên tố vi lượng như kẽm, sắt, selen và rất giàu canxi hữu cơ.

E. Công dụng và các nghiên cứu khoa học 

1. Giảo cổ lam giúp hạ đường huyết, hỗ trợ điều trị bệnh tiểu đường tuýp II:

  • Các chất trong Giảo cổ lam có tác dụng ổn định đường huyết trên bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2. Năm 2004, Viện dược liệu Trung ương kết hợp với viện nghiên cứu Karolinska, Thụy Điển đã tìm ra một hoạt chất mới từ cây Giảo cổ lam, có tác dụng kích thích tạo insulin. Các nhà khoa học đã chứng minh được hoạt chất này là một saponin mới và được đặt tên là Phanoside (lấy tên nhà khoa học Việt Nam Đào Văn Phan, trưởng nhóm nghiên cứu). Khi sử dụng trên chuột người ta thấy rằng Phanoside đáp ứng với từng nồng độ glucose khác nhau. Điều thú vị là độ nhạy cảm của tế bào đảo tụy với Phanoside khi nồng độ glucose cao tốt hơn khi ở nồng độ thấp. Điều này có nghĩa là Giảo cổ lam hầu như không có tác dụng hạ đường huyết khi nồng độ đường trong máu ở ngưỡng giới hạn bình thường mà chỉ làm giảm đường huyết trên đối tượng có nồng độ đường huyết cao.
  • Từ thành công ban đầu tìm ra phanoside năm 2007, các tác giả này đã tìm ra cơ chế kiểm soát đường huyết của phanoside là do khả năng kích thích tiết insulin từ đảo tụy. Và đến năm 2010, một cuộc thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 đã được thực hiện. Kết quả cho thấy, sau khi sử dụng trà Giảo cổ lam với mức liều 6g/ngày, sau 4 tuần thì nồng độ đường trong máu giảm 3 mmol/l so với trước khi sử dụng, đồng thời Giảo cổ lam còn giúp cải thiện tình trạng rối loạn mỡ máu của bệnh nhân tiểu đường.
  • Một nghiên cứu lâm sàng khác năm 2011 do TS. Vũ Thị Thanh Huyền, bộ môn Dược lý, trường Đại học Y Hà Nội phối hợp với Hội đái tháo đường Thụy Điển thực hiện trên 65 bệnh nhân tiểu đường tuýp 2 tại bệnh viện Lão Khoa Trung ương có chỉ số đường huyết lúc đói trong khoảng từ 9 đến 14 mmol/l, sử dụng trà Giảo cổ lam với mức liều 6g/ngày (tương đương 3 gói trà Giảo cổ lam Tuệ Linh 2g dạng túi lọc), trong thời gian 12 tuần. Kết quả cho thấy, sau 12 tuần sử dụng trà Giảo cổ lam, đường huyết giảm 3 mmol/l so với nhóm đối chứng không sử dụng Giảo cổ lam. Nghiên cứu cũng nhận thấy nếu sử dụng một thuốc hạ đường huyết gliclazide trong 4 tuần sau đó chuyển sang sử dụng trà Giảo cổ lam trong 8 tuần cũng giúp làm giảm đường huyết lúc đói là 2,9 mmol/l so với nhóm chỉ sử dụng gliclazide đơn thuần trong 4 tuần đầu. Đồng thời nghiên cứu của TS. Vũ Thị Thanh Huyền cũng nhận thấy sử dụng trà Giảo cổ lam làm tăng mức độ nhạy cảm của tế bào với insulin, khả năng sử dụng glucose của tế bào, do đó giúp ổn định nồng độ đường trong máu.
  • Như vậy, tác dụng hạ đường huyết của giảo cổ lam dựa trên các cơ chế:
    • Kích thích tế bào beta đảo tụy tăng tiết insulin.
    • Giảm tính kháng của tế bào đối với insulin
    • Giảm tổng hợp glucose ở gan

2. Giảo cổ lam giúp hạ mỡ máu, ngăn ngừa xơ vữa động mạch:

Giảo cổ lam làm hạ mỡ máu, giảm cholesterol toàn phần, triglyceride và tăng hoạt tính của enzyme lipoprotein lipase làm tăng thoái giáng lipid trong máu, do đó ngăn ngừa nguy cơ xơ vữa mạch máu, chống huyết khối.

  • Những đánh giá bước đầu về tác dụng làm giảm cholesterol máu đã được tác giả Phạm Thanh Kỳ công bố trên tạp chí Dược liệu vào năm 1999 khi tiến hành thử nghiệm trên mô hình chuột gây rối loạn mỡ máu bằng chế độ ăn giàu lipid cho thấy: uống Giảo cổ lam trong 30 ngày làm giảm cholesterol toàn phần 71% so với nhóm không sử dụng dược liệu này. Kết quả này là cơ sở khoa học khẳng định tác dụng làm giảm mỡ máu của Giảo cổ lam.
  • Một nghiên cứu khác của tác giả Samer Megalli, trường Đại học Sydney, Úc công bố năm 2005 cũng khẳng định tác dụng làm giảm cholesterol toàn phần trong máu, triglycerid, LDL (một loại cholesterol xấu trong máu, loại cholesterol này làm tăng nguy cơ xuất hiện các mảng xơ vữa động mạch và các bệnh tim mạch như nhồi máu cơ tim, đột quỵ…) trên mô hình động vật thí nghiệm. Theo kết quả của nghiên cứu này thì sử dụng Giảo cổ lam làm giảm lượng triglycerid trong máu 85%, cholesterol toàn phần 44% và giảm lượng LDL 35%, tác dụng này gần như tương đương với atorvastatin, là thuốc được ưu tiên lựa chọn hàng đầu cho bệnh nhân rối loạn mỡ máu hiện nay.

3. Tác dụng trên tim mạch, huyết áp:

  • Tác dụng trên huyết áp:
  • Các nhà khoa học tại Trung tâm Y tế Đại học Vanderbilt (Mỹ) đã chứng minh rằng: uống Giảo cổ lam sẽ kích thích cơ thể sản xuất ra oxit nitric, chất này thúc đẩy quá trình lưu thông máu và có vai trò tích cực trong việc kiểm soát huyết áp, phòng ngừa các biến chứng tim mạch.
  • Các nhà khoa học đã thử nghiệm lâm sàng trên 223 bệnh nhân được chia thành ba nhóm: Nhóm 1 dùng nhân sâm, nhóm 2 dùng giảo cổ lam và nhóm 3 dùng thuốc huyết áp Indapamide. Kết quả thu được, nhân sâm chỉ giảm chỉ số huyết áp 46%, Giảo cổ lam là 82% và thuốc Indapamide là 93%. Như vậy, sử dụng Giảo cổ lam có ý nghĩa rõ ràng trong hỗ trợ điều trị bệnh tăng huyết áp.
  • Gần đây, GS.TSKH. Trần Văn Sung (nguyên Viện trưởng Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam) còn phát hiện ra hoạt chất Adenosin trong giảo cổ lam 5 lá. Adenosin rất tốt cho những người tim mạch (làm giảm rõ rệt những cơn đau tim), bởi adenosin có khả năng tạo năng lượng rất mạnh, tăng khả năng chịu đựng của cơ tim, kích hoạt giấc ngủ sinh lý, giúp dễ ngủ.

4. Tác dụng chống khối u:

  • Năm 2011, Tạp chí Dược học số 5/2011 đã đăng tải nghiên cứu của GS.TS Phạm Thanh Kỳ và PGS.TS Trần Lưu Vân Hiền (Viện Y học cổ truyền Nguyễn Bỉnh Khiêm) chứng minh chiết xuất Giảo cổ lam có tác dụng ngăn ngừa và kìm hãm sự phát triển khối u một cách rõ rệt.
  • Năm 2012, GS.TS Phạm Thanh Kỳ tiếp tục phối hợp với các cộng sự Hàn Quốc, đã tìm thấy 7 hoạt chất saponin mới trong cây Giảo cổ lam Việt Nam và đặt tên là gypenoisd VN 01-07. Các chất này được chứng minh có khả năng tiêu diệt mạnh các tế bào ung thư bạch cầu, phổi, đại tràng, vú và tử cung.

5. Giảo cổ lam làm tăng đáp ứng miễn dịch:

  • Giảo cổ lam giúp tăng cường sinh lực do có các saponin có cấu trúc giống saponin trong nhân sâm giúp cơ thể cân bằng tối ưu bằng cách cân bằng hormon nội tiết, hệ miễn dịch, hệ thần kinh và các chức năng sinh học khác.
  • Giảo cổ lam có tác dụng tăng đáp ứng miễn dịch trên chuột ở cả 2 mô hình gây ức chế miễn dịch bằng Cyclophosphamid và tia xạ với liều thí nghiệm (3,4mg cao đặc/20g chuột/ngày). Cụ thể, saponin toàn phần trong GCL:
    • Có tác động rõ rệt lên sự ức chế miễn dịch gây ra bởi Cyclophosphamide khi thử nghiệm trên động vật, dẫn đến sự phục hồi ở chuột được dùng Cyclophosphamide về phương diện khối lượng các cơ quan miễn dịch, hàm lượng chất tan huyết và sự tăng rõ rệt hoạt tính của tế bào NK, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh với nhóm đối chứng dùng Cyclophosphamide (p < 0,005-0,01).
    • Có tác động điều hòa miễn dịch 2 chiều trên chuột khỏe mạnh bình thường, phục hồi các chỉ số miễn dịch từ cao hơn hoặc thấp hơn trị số trung bình về trị số bình thường, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh với nhóm chứng dùng Cyclophosphamide.
    • Có tác dụng ngăn chặn mệt mỏi, giúp cơ thể chịu đựng được tình trạng thiếu oxy dưới áp suất khí quyển bình thường.
]]>
http://nannghe.vn/tong-quan-ve-cay-giao-co-lam-1006/feed/ 0
Nghiên cứu tác dụng của cây giảo cổ lam trên bệnh nhân tiểu đường type 2 http://nannghe.vn/nghien-cuu-tac-dung-cua-cay-giao-co-lam-tren-benh-nhan-tieu-duong-type-2-1007/ http://nannghe.vn/nghien-cuu-tac-dung-cua-cay-giao-co-lam-tren-benh-nhan-tieu-duong-type-2-1007/#respond Mon, 27 Apr 2020 07:03:07 +0000 http://nannghe.vn/?p=1007 Tên đề tài: Các cơ chế kích thích tiết insulin từ đảo tuỵ chuột của phanoside.

Tác giả: Hoa NK1, Norberg A, Sillard R, Van Phan DThuan NDDzung DTJörnvall HOstenson CG.

Năm thực hiện nghiên cứu: 2007

Nơi thực hiện nghiên cứu: Sở Y học phân tử và Phẫu thuật, Viện Karolinska, Bệnh viện Đại học Karolinska, Stockholm, Thụy Điển

Link nghiên cứuhttp://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/?term=17283239

Nghiên cứu :

Để nghiên cứu các cơ chế mà phanoside kích thích bài tiết insulin. Đảo tụy chuột được cô lập bình thường (w) và tự phát tiểu đường (GK) . Tại cả 2 liều glucose 3 x 3 và 16 x 7 mM, phanoside kích thích tiết insulin nhiều lần trong cả hai đảo nhỏ GK và W. Trong “perifusion” các đảo W, phanoside (75 và 150 microM) liều dependently tăng tiết insulin mà trở về mức đáy khi phanoside đã được bỏ qua. Khi đảo W được ủ ở 3 x 3 mM glucose với 150 mũm phanoside và 0 x 25 mM diazoxide để giữ cho các kênh K-ATP mở, sự tiết insulin tương tự như ở đảo ủ trong 150 microM phanoside một mình. Tại 16 x 7 glucose mM, sự tiết insulin phanoside kích thích đã giảm trong sự hiện diện của 0 x 25 mM diazoxide (P <0 x 01). Trong hòn đảo nhỏ W khử cực 50 mM KCl và với diazoxide, phanoside kích thích giải phóng insulin gấp đôi tại 3 x 3 glucose mM nhưng đã không tiếp tục tăng sự phát hành tại 16 x 7 glucose mM. Khi sử dụng nimodipine chặn L-type Ca2 + trong kênh B-tế bào, bài tiết insulin phanoside gây nên là không bị ảnh hưởng tại 3 x 3 glucose mM nhưng giảm tại 16 x 7 mM glucose (P <0 x 01). Tiền xử lý các đảo nhỏ với độc tố ho gà để ức chế exocytotic Ge-protein không ảnh hưởng đến phản ứng insulin đến 150 microM phanoside. Phanoside kích thích tiết insulin từ Wand GK đảo chuột. Hiệu ứng này dường như do tác động xa K-ATP kênh và L-type Ca2 + kênh, mà là trên các máy móc exocytotic của B-tế bào.

Kết quả : Cho thấy rằng phanoside, một gypenoside phân lập từ cây Giảo cổ lam, có tác dụng kích thích bài tiết insulin ở đảo tụy chuột.

]]>
http://nannghe.vn/nghien-cuu-tac-dung-cua-cay-giao-co-lam-tren-benh-nhan-tieu-duong-type-2-1007/feed/ 0
Tác dụng điều trị đái tháo đường của trà Giảo cổ lam khi đối chứng với trà giả dược http://nannghe.vn/tac-dung-dieu-tri-dai-thao-duong-cua-tra-giao-co-lam-khi-doi-chung-voi-tra-gia-duoc-1001/ http://nannghe.vn/tac-dung-dieu-tri-dai-thao-duong-cua-tra-giao-co-lam-khi-doi-chung-voi-tra-gia-duoc-1001/#respond Mon, 27 Apr 2020 06:51:34 +0000 http://nannghe.vn/?p=1001 Tên đề tài: Tác dụng điều trị đái tháo đường của trà Giảo cổ lam khi đối chứng với trà giả dược.

Tác giả: Huyen VT, Phan DV, Thang P, Hoa NK, Ostenson CG.

Thời gian nghiên cứu: năm 2010.

Nơi thực hiện nghiên cứu: Bệnh viện Đại học Karolinska, Stockholm, Thụy Điển.

Link nghiên cứu gốc: http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/?term=20213586

Mục đích và phương pháp :

Mục đích của nghiên cứu để điều tra tác dụng điều trị đái tháo đường của trà Giảo cổ lam Việt Nam, thí nghiệm được thực hiện với 24 bệnh nhân và được phân chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Một nhóm được sử dụng trà Giảo cổ lam, nhóm còn lại dùng trà giải dược.Mỗi ngày sử dụng 6g, trong 12 tuần và được hướng dẫn về chế độ ăn, tập thể dục. Glucose huyết lúc đói, nồng độ insulin, và glycosylated hemoglobin (HbA (1C)) được đo trước, trong và sau khi điều trị. Xét nghiệm dung nạp glucose đường uống được thực hiện 4 tuần một lần. Sau 12 tuần điều trị, nồng độ glucose huyết tương lúc đói giảm là 3,0 +/- 1,8 mmol / l ở nhóm trà GCL so với mức giảm 0,6 +/- 2,2 mmol / l ở nhóm chứng (p <0,01). HbA (1C) cấp sau 12 tuần giảm khoảng 2% đơn vị trong nhóm dùng trà GCL so với 0,2% đơn vị trong nhóm giả dược (p <0,001). Thay đổi trong kháng Cân bằng nội môi Mẫu Assessment-Insulin giữa đường cơ sở và tuần thứ 12 chỉ ra rằng kháng insulin giảm đáng kể ở nhóm dùng trà GCL (-2.1 +/- 3.0) so với (1,1 +/- 3,3) ở nhóm chứng (p < 0,05). Không có hypoglycemias, hay tác dụng phụ liên quan đến thận và các thông số chức năng gan, tiêu hoá bình thường. Ngoài ra lipid, glucagon, mức độ cortisol, số đo cơ thể, và huyết áp không khác nhau giữa các nhóm.

Kết quả :

Nghiên cứu này cho thấy một sự cải thiện nhanh chóng của đường huyết và thụ thể insullin, do đó cung cấp một cơ sở cho một cuốn sách về  hiệu quả, cách tiếp cận an toàn, sử dụng trà giảo cổ lam để điều trị bệnh nhân tiểu đường type 2.

]]>
http://nannghe.vn/tac-dung-dieu-tri-dai-thao-duong-cua-tra-giao-co-lam-khi-doi-chung-voi-tra-gia-duoc-1001/feed/ 0
Dammaranes từ cây giảo cổ lam và các dẫn chất của chúng có tác dụng ức chế Protein tyrosine phosphatase 1B http://nannghe.vn/dammaranes-tu-cay-giao-co-lam-va-cac-dan-chat-cua-chung-co-tac-dung-uc-che-protein-tyrosine-phosphatase-1b-997/ http://nannghe.vn/dammaranes-tu-cay-giao-co-lam-va-cac-dan-chat-cua-chung-co-tac-dung-uc-che-protein-tyrosine-phosphatase-1b-997/#respond Mon, 27 Apr 2020 06:43:24 +0000 http://nannghe.vn/?p=997 Tên nghiên cứu: Dammaranes từ cây giảo cổ lam và các dẫn chất của chúng có tác dụng ức chế Protein tyrosine phosphatase 1B.

Tác giả: Xu JQ, Shen Q, Li J, Hu LH.

Thời gian nghiên cứu: năm 2010.

Nơi thực hiện nghiên cứu: Khoa học sinh học , Viện Khoa học Trung Hoa, Thượng Hải , Trung Quốc .

Link nghiên cứu: http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/?term=20472439

Cách tiến hành và kết quả:

Protein tyrosine phosphatase 1B (PTP1B) là một yếu tố quan trọng trong việc ức chế (negative) điều tiết của insulin và là một mục tiêu đầy hứa hẹn trong điều trị bệnh tiểu đường và béo phì. Ở đây, các 2b sapogenin ( các dammarane là một nhóm hợp chất và các chất trong đó được đánh số 1,2,3,4…..) biến đổi từ triterpene saponin 1b tự nhiên, đã được sửa đổi tại 3 vị trí để tạo thành các dẫn xuất dammarane qua este hóa, quá trình oxy hóa và phản ứng amin hóa chất khử và đã được đánh giá là chất ức chế PTP1B. Thí nghiệm trong ống nghiệm, cho thấy 3-O-para-Carboxylphenyl là hợp chất ức chế tốt nhất tyrosine protein phosphatase 1B.

]]>
http://nannghe.vn/dammaranes-tu-cay-giao-co-lam-va-cac-dan-chat-cua-chung-co-tac-dung-uc-che-protein-tyrosine-phosphatase-1b-997/feed/ 0
Điều trị đái tháo đường type 2 khi kết hợp trà giảo cổ lam và thuốc nhóm Sulfonylureas http://nannghe.vn/dieu-tri-dai-thao-duong-type-2-khi-ket-hop-tra-giao-co-lam-va-thuoc-nhom-sulfonylureas-990/ http://nannghe.vn/dieu-tri-dai-thao-duong-type-2-khi-ket-hop-tra-giao-co-lam-va-thuoc-nhom-sulfonylureas-990/#respond Mon, 27 Apr 2020 06:28:34 +0000 http://nannghe.vn/?p=990 Tên nghiên cứu : Antidiabetic Effects of Add-On Gynostemma pentaphyllum Extract Therapy with Sulfonylureas in Type 2 Diabetic Patients.

( Tác dụng điều trị đái tháo đường type 2 khi kết hợp trà giảo cổ làm và thuốc nhóm Sulfonylureas. )

Năm thực hiện : 2012

Tác giả : Huyen VT, Phan DV, Thang P, Ky PT, Hoa NK, Ostenson CG.

Nơi thực hiện : Viện Karolinska, Stockholm, Thụy Điển; Đại học Y Hà Nội, Viện Lão khoa, Hà Nội, Việt Nam.

Link : https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/?term=antidiabetic+efects+of+add+on+Gynostema

Mục đích : Để nghiên cứu ảnh hưởng của trà Giảo cổ lam Việt Nam (GP) khi sử dụng cùng sulfonylurea (SU) trong bệnh đái tháo đường type 2. Nghiên cứu được thực hiện trên 25 bệnh nhân (25 drug-naïve)

Phương pháp :

Sau khi điều trị 4 tuần với gliclazide (SU), 30 mg hàng ngày, tất cả các bệnh nhân được phân ngẫu nhiên thành 2 nhóm để sử dụng GP hoặc sử dụng giả dược, 6 g mỗi ngày, trong suốt 8 tuần.

Kết quả :

Sau 4 tuần điều trị SU, glucose huyết tương lúc đói (FPG) và HbA (1C) giảm đáng kể (P <0,001). 8 tuần sau, FPG giảm thêm tương ứng với 2,9 ± 1,7 trong nhóm GP và 0,9 ± 0,6 mmol/L trong nhóm giả dược (P <0,001). Trị liệu với chiết xuất GP cũng giảm từ 30 đến 120 phút trong thử nghiệm dung nạp glucose. HbA (1C) mức giảm khoảng 2% các đơn vị trong nhóm GP so với 0,7% ở nhóm dùng giả dược (P <0,001).

Kết luận : Sử dụng GP ngoài SU cung cấp một thay thế cho bổ sung các thuốc uống khác để điều trị bệnh nhân tiểu đường type 2.

 

]]>
http://nannghe.vn/dieu-tri-dai-thao-duong-type-2-khi-ket-hop-tra-giao-co-lam-va-thuoc-nhom-sulfonylureas-990/feed/ 0
Nghiên cứu meta về cơ chế của Giảo cổ lam và atorvastatin điều trị tăng lipid máu ở chuột http://nannghe.vn/nghien-cuu-meta-ve-co-che-cua-giao-co-lam-va-atorvastatin-dieu-tri-tang-lipid-mau-o-chuot-985/ http://nannghe.vn/nghien-cuu-meta-ve-co-che-cua-giao-co-lam-va-atorvastatin-dieu-tri-tang-lipid-mau-o-chuot-985/#respond Mon, 27 Apr 2020 06:16:42 +0000 http://nannghe.vn/?p=985 Tên nghiên cứu : Metabonomics study of the therapeutic mechanism of Gynostemma pentaphyllum and atorvastatin for hyperlipidemia in rats.

( Nghiên cứu Metabonomics về cơ chế điều trị của Gynostemma pentaphyllum và atorvastatin cho bệnh mỡ máu cao ở chuột.)

Năm thực hiện : 2013

Tác giả : Wang M1, Wang F, Wang Y, Ma X, Zhao M, Zhao C

Nơi thực hiện : Trường Khoa học đời sống và dược phẩm sinh học, Trường Đại học Dược Shenyang, Shenyang, Trung Quốc.

Link : https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/?term=24223845

Nghiên cứu và tiến hành :

Giảo cổ lam (GP) được sử dụng rộng rãi trong điều trị các bệnh như tăng lipid máu, gan nhiễm mỡ và béo phì ở Trung Quốc và atorvastatin được sử dụng rộng rãi như một loại thuốc chống tăng lipid máu. Nghiên cứu này tập trung vào các chất chuyển hóa trong huyết tương và gan trong bốn nhóm sau của chuột: bình thường, tăng lipid máu, tăng lipid máu được điều trị với bác sĩ và tăng lipid máu được điều trị với atorvastatin. Sử dụng “metabonomics (1) H-NMR-based” , chúng tôi làm sáng tỏ cơ chế điều trị của atorvastatin.

“Orthogonal Partial Least Squares-Discriminant analysis (OPLS-DA) plotting of the metabolic state and analysis of potential biomarkers in the plasma and liver correlated well with the results of biochemical assays”. GP có ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa lipid và nó có tác dụng chống tăng lipid máu  bằng cách nâng cao mức độ phosphatidylcholine và giảm mức độ trimethylamine N-oxide (TMAO). Ngược lại, atorvastatin ảnh hưởng đến tăng lipid máu chủ yếu trong quá trình trao đổi chất chuyển hóa lipid và protein trong cơ thể.

Tóm tắt các con đường chuyển hóa liên quan đến các chất chuyển hóa đã thay đổi đáng kể trong mô hình tăng lipid máu

]]>
http://nannghe.vn/nghien-cuu-meta-ve-co-che-cua-giao-co-lam-va-atorvastatin-dieu-tri-tang-lipid-mau-o-chuot-985/feed/ 0
Trà Giảo cổ lam được sử dụng trong y học dân gian Việt như chất chống đái tháo đường http://nannghe.vn/tra-giao-co-lam-duoc-su-dung-trong-y-hoc-dan-gian-viet-nhu-chat-chong-dai-thao-duong-981/ http://nannghe.vn/tra-giao-co-lam-duoc-su-dung-trong-y-hoc-dan-gian-viet-nhu-chat-chong-dai-thao-duong-981/#respond Mon, 27 Apr 2020 05:02:19 +0000 http://nannghe.vn/?p=981 Tên đề tài :Tác dụng ức chế Protein tyrosine phosphatase 1B của dammaranes từ trà Giảo cổ lam Việt Nam

Tác giả: Hung TM1, Hoang DM, Kim JC, Jang HS, Ahn JS, Min BS.

Năm thực hiện : 2009

Nơi thực hiện nghiên cứu: Đại học Công giáo Daegu, Gyeongsan , Hàn Quốc.

Link nghiên cứu: http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/?term=19397985

Nghiên cứu và kết quả:

Trà Giảo cổ lam được sử dụng trong y học dân gian Việt như chất chống đái tháo đường.

Nghiên cứu:

Nghiên cứu này nhằm mục đích để điều tra sự ức chế của một số thành phần phân lập từ Giảo cổ lam trên tyrosine protein phosphatase 1B (PTP1B) vì nó đã được đề xuất như là một liệu pháp điều trị bệnh tiểu đường loại 2 và bệnh béo phì.

Vật liệu và phương pháp : Dịch chiết EtOH 70%, CHCl3, EtOAc, BuOH và triterpenes dammarane cô lập được đánh giá về hoạt động ức chế của họ trong các enzym phosphatase protein (PTP1B và VHR).

Kết quả :

Phần CHCl3-tan cho thấy một hoạt động ức chế phụ thuộc liều dùng của các enzyme PTP1B với giá trị IC50 30,5 microg / mL. Trong số 7 hợp chất thử nghiệm, hợp chất 6 cho thấy PTP1B hoạt động ức chế mạnh nhất với giá trị IC50 là 5,3 +/- 0,4 microM so với một loạt 15,7-28,5 microM trong sáu hợp chất khác. Các chế độ ức chế 6 là cạnh tranh đối với p-NPP với K (i) giá trị của 2,8 microM.

Kết luận : Những kết quả nghiên cứu cho rằng các hoạt động ức chế PTP1B của dammaranes có vai trò quan trọng trong việc điều trị bệnh tiểu đường.

]]>
http://nannghe.vn/tra-giao-co-lam-duoc-su-dung-trong-y-hoc-dan-gian-viet-nhu-chat-chong-dai-thao-duong-981/feed/ 0
Tổng quan về Nần Nghệ http://nannghe.vn/nan-nghe-339/ http://nannghe.vn/nan-nghe-339/#respond Tue, 21 Apr 2020 03:17:16 +0000 http://nannghe.vn/?p=339

Tên khoa học: Dioscorea collettii Hook.f. 1892.

Tên đồng nghĩa: Dioscorea oenea Prain & Burk. 1914.

Tên khác: Từ collett.

Họ: Củ nâu (Dioscoreaceae).

Giới thiệu :

Đầu những năm 1970, trong lúc đi sưu tầm thảo dược quý, các chuyên gia trường đại học Dược Hà Nội gặp gỡ một cụ già người Dao và được cụ chỉ cho một dây leo cuốn, củ có màu vàng, rễ giống râu hùm, có vị đắng và chỉ mọc ở độ cao trên 1500m so với mặt nước biển. Cụ nói “cây này quý lắm đấy, nhưng chỉ làm thuốc thôi không ăn được đâu, nó giúp một số cán bộ bụng to đã bé lại và giúp hết đau nhức xương khớp rất hiệu nghiệm; dân ở đây gọi nó là củ Nần (Nần theo tiếng dân tộc có nghĩa là râu hùm)”. Về mặt thực vật học, các chuyên gia nhận ra nó thuộc họ củ nâu, thuộc chi Dioscorea.

Thảo dược này sau đó đã được giám định tên khoa học là Dioscorea collettii, chiết xuất saponin từ củ với hàm lượng khá cao. (Những năm sau đó trong các công trình khoa học đăng trên tạp chí Dược học trong nước và ở Liên Xô cũ, cây được đặt tên là Nần nghệ).

A. Mô tả :

Dây leo quấn, sống nhiều năm, dài 5-10 m. Thân rễ màu vàng, phân nhiều nhánh ngắn tạo thành một khối có đường kính đạt tới 20 cm. Lá đơn, mọc cách; phiến lá hình tim, cỡ 6-10 × 5-9 cm; có 7 gân, trong đó 3 gân gốc vươn tới chóp lá; ở gốc cuống lá có 2 gai nhỏ cong (lá kèm biến dạng). Cụm hoa đực là những xim dài 10-30 cm, mỗi xim có 3-4 hoa. Hoa đực không cuống, bao hoa gồm 6 mảnh dính nhau ở gốc, với 6 thùy hình tam giác ở đỉnh. Nhị hữu thụ 3 có chỉ nhị chia đôi thành hình nạng và mỗi nhãnh mang 1 bao phấn; nhị lép 3, hình dùi. Cụm hoa cái hình chùm, dài 15-30 cm. Hoa cái có 2 lá bắc, bao hoa 6 thùy, không có nhị lép; nùm nhụy 3 thùy. Quả nang quặt lại, có 3 cánh, 3 ô, mỗi ô chứa 2 hạt. Hạt có cánh tròn.

Thân rễ nằm dưới đất, đến tháng 2-3 mới mọc thân khi sinh, tháng 5-6 ra hoa và kết quả, cây tàn lụi vào tháng 11-12.

B. Phân bố:

– Trong nước: Cây phân bố ở Sơn La (Mộc Châu).

– Thế giới: Cây có ở Ấn Độ, Trung Quốc, Myanmar.

Cây mọc rải rác ven rừng, trong rừng tre nứa, cây bụi, ven suối, sườn núi. Phân bố rất hẹp, mọc rất rải rác, nơi sống đang bị xâm hại do tàn phá rừng.

Vì vậy, hiện nay Nần nghệ đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá “hiếm” (R) [1].

C. Bộ phận dùng :

Thân rễ đã phơi hay sấy khô của cây. Thân rễ không có hình dạng nhất định, thường phân nhánh  và thắt thành từng đoạn không đều nhau, chiều dài từ 5 cm  đến 8 cm, dày 2 cm đến 3 cm, tạo thành khối. Ở tận cùng  các nhánh có những lớp bần tụ thành từng đám vẩy màu  đen. Vỏ ngoài cỏ màu nâu vàng hoặc xám, xù xì, lồi lõm,  mang rất nhiều rễ con nhỏ dạng sợi cứng, phần sát với thân  rễ có vết tích của lớp bần bị bong ra, tạo thành những ống  ôm lấy rễ con. Rễ con tự rụng đi khi thân rễ già làm cho  bề mặt thân rễ nhẵn hơn, có màu vàng nâu rõ hơn. Mặt cắt  màu vàng tươi, nhẵn, chất cứng và dai [2].

D. Thành phần hóa học:

Thành phần quan trọng nhất là Diosgenin. Theo Dược điển Việt Nam V, dược liệu phải chứa không được ít hơn 2,5 % diosgenin  (C27H42O3) tính theo dược liệu khô kiệt [2]. Trong thời kỳ hoa nở, hàm lượng diosgenin lên cao nhất (4,4%). Các nhà khoa học đã chiết được diosgenin tinh khiết từ Nần nghệ với hiệu suất chiết là 2% [3].

E. Tác dụng dược lý:

Diosgenin

Diosgenin là một hợp chất phytochemical (hợp chất có nguồn gốc từ thực vật), được tìm thấy trong nhiều thực phẩm, gia vị và đang dần trở nên phổ biến hơn các thuốc tổng hợp thông thường, chủ yếu là do chúng hoạt động thông qua nhiều mục tiêu phân tử phối hợp để ngăn ngừa hoặc điều trị hiệu quả các bệnh mãn tính. Các hợp chất phytochemical cũng an toàn (không có hoặc có rất ít tác dụng độc hại) và có sinh khả dụng tốt hơn. Saponin thực phẩm đã được sử dụng trong y học truyền thống để chống lại một loạt các bệnh bao gồm một số bệnh ung thư. Diosgenin, một saponin steroid tự nhiên được tìm thấy rất nhiều trong các cây thuộc loài Dioscorea sp. Diosgenin là tiền chất của nhiều thuốc steroid tổng hợp khác nhau được sử dụng rộng rãi trong ngành dược phẩm. Trong hai thập kỷ qua, một loạt các nghiên cứu tiền lâm sàng và cơ học đã được tiến hành độc lập để hiểu vai trò có lợi của diosgenin đối với các bệnh chuyển hóa (tăng cholesterol máu, rối loạn lipid máu, tiểu đường và béo phì), viêm và ung thư. Trong các mô hình thử nghiệm của bệnh nhân béo phì, diosgenin làm giảm triglyceride huyết tương và gan và cải thiện cân bằng glucose nội môi hợp lý bằng cách thúc đẩy biệt hóa tế bào mỡ và ức chế viêm trong các mô mỡ. Một số thí nghiệm đã được thực hiện để hiểu được hiệu quả tiền lâm sàng của diosgenin như là một tác nhân hóa trị liệu / điều trị chống lại ung thư trong một số cơ quan nội tạng.

1. Tác dụng hạ mỡ máu và béo phì

Khả năng hạ lipid của diosgenin đã được chứng minh bằng một số nghiên cứu thực nghiệm

(Uemura et al., 2010). Hai nghiên cứu lâm sàng đã được công bố gần đây cho thấy các đặc tính chống béo phì của diosgenin. Đầu tiên là một thử nghiệm chéo, ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng giả dược, 3 giai đoạn (14 ngày) với mười hai tình nguyện viên nam khỏe mạnh, đã chứng minh rằng diosgenin giảm tiêu thụ chất béo tự phát so với giả dược (Chevassus et al., 2009). Trong nghiên cứu thứ hai, một thử nghiệm song song, ngẫu nhiên, mù đôi 6 tuần đối chứng giả dược, với ba mươi chín tình nguyện viên nam thừa cân khỏe mạnh, cho thấy giảm tiêu thụ chất béo trong chế độ ăn ở nhóm sử dụng diosgenin so với nhóm nhận giả dược (Chevassus et al., 2010). Kết hợp lại, hai nghiên cứu lâm sàng cung cấp bằng chứng để hỗ trợ diosgenin có thể có khả năng điều chỉnh sự tiêu thụ chất béo ở người [8].

Nhóm các nhà nghiên cứu Trường Đại học Dược Hà Nội (Hoàng Kim Huyền, Nguyễn Minh Thu, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Trung Chính) đã nghiên cứu về tác dụng hạ cholesterol của Nần nghệ trên mô hình gây bệnh thực nghiệm. Mô hình gà công nghiệp trắng được gây tăng cholesterol theo cơ chế tăng nội sinh theo mô hình Steinberg bằng cách tiêm diethylstiboestrol. Kết quả cao Nần nghệ có tác dụng hạ cholesterol rõ ràng. Tất cả các chỉ số lipid máu của nhóm thử nghiệm sử dụng cao Nần nghệ đều trở về trị số bình thường. Điều đáng lưu ý là Nần nghệ hạ cholesterol, đặc biệt hạ rất mạnh LDL (low density lipoprotein: lipoprotein tỷ trọng thấp – còn gọi là các “cholesterol xấu” bởi vì chất này làm tăng các mảng bám mỡ trong động mạch, gây các biến chứng xơ vữa động mạch, nhồi máu cơ tim…). Thêm nữa, Nần nghệ lại có xu hướng tăng HDL (high density lipoprotein: lipoprotein tỷ trọng cao – còn gọi là các “cholesterol tốt”, giúp chuyển cholesterol dư thừa từ thành mạch máu về gan để chuyển hóa, giảm nguy cơ tai biến, nhồi máu cơ tim) [3].

Nhóm các nhà nghiên cứu trường Đại học Y Hà Nội (Trương Thị Mai Vân, Nguyễn Thanh Thủy, Đỗ Thị Phương) đã nghiên cứu đánh giá hiệu quả điều trị rối loạn lipid máu và khảo sát tác dụng không mong muốn trên lâm sàng và cận lân sàng của viên hoàn bào chế từ cây Nần nghệ. Kết quả cho thấy sau 30 ngày điều trị, cholesterol toàn phần giảm 0,48± 0,27 mmol/l, tỷ lệ giảm 8,7% (p < 0,05); triglycerid giảm 1,15± 0,40 mmol/l, tỷ lệ giảm 28,2% (p < 0,05); LDL – C giảm 0,37± 0,16 mmol/l, tỷ lệ giảm 11,1% (p < 0,05); HDL – C tăng 0,02± 0,18 mmol/l, tỷ lệ tăng 1,8% (p > 0,05). Kết quả điều trị chung theo y học cổ truyền: rất tốt chiếm 6,7%, tốt chiếm 26,6%, khá chiếm 40,0%, không hiệu quả chiếm 26,7%. Viên hoàn có tác dụng làm giảm cholesterol toàn phần, triglycerid, LDL – C và tăng HDL – C sau 30 ngày điều trị trên bệnh nhân rối loạn lipid máu và chưa phát hiện tác dụng không mong muốn trên lâm sàng và cận lâm sàng [4].

Dược điển Việt Nam đã công nhận công dụng hạ cholesterol máu của dược liệu Nần nghệ [2].

2. Tác dụng trên đường huyết

Có một số báo cáo cho thấy các nguồn thực phẩm giàu diosgenin góp phần vào tác dụng chống tiểu đường trong các mô hình thí nghiệm (Basch et al., 2003; Omoruyi, 2008). Bằng chứng từ các thử nghiệm lâm sàng ở người cho thấy rõ rằng diosgenin cải thiện đường huyết và các thông số trao đổi chất khác dẫn đến điều trị bệnh tiểu đường (Basch et al., 2003) Diosgenin làm giảm đáng kể glucose huyết tương trong chuột mắc bệnh tiểu đường do streptozotocin gây ra, bằng cách so sánh với các biện pháp kiểm soát bệnh tiểu đường cho thấy đặc tính chống tiểu đường của nó (McAnuff và cộng sự, 2005). Những kết quả này đã được củng cố bởi thực tế là một số enzyme gan giới hạn tỷ lệ thường tham gia vào quá trình chuyển hóa glucose bị thay đổi khi mắc tiểu đường đã được bình thường hóa bằng cách điều trị bằng diosgenin (McAnuff et al., 2005). Vì vậy, có nhiều bằng chứng (bao gồm cả các thử nghiệm lâm sàng) cho thấy rằng diosgenin có thể được sử dụng như một thuốc thay thế để điều trị bệnh tiểu đường và các biến chứng liên quan [8].

3. Tác dụng trên chức năng gan, thận, bài tiết mật

Có rất nhiều thông tin cho thấy rằng diosgenin có thể ảnh hưởng đến một số bệnh chuyển hóa do có ảnh hưởng trực tiếp đến một số mục tiêu phân tử tham gia vào quá trình chuyển hóa enzyme cũng như quá trình dẫn truyền tín hiệu ở gan. Vì vậy, những điều này giúp diosgenin có thể điều hòa chức năng gan một cách hợp lý và có thể hỗ trợ trong việc kiểm soát điều trị các bệnh về gan. Thử nghiệm trên dược liệu giàu diosgenin cho thấy tác dụng làm suy yếu xơ gan do CCl4 ở chuột (Chan và cộng sự, 2010), góp phần bảo vệ mô bệnh học đáng kể trên gan chuột bị gây độc do ethanol (Thirunavukkarasu và cộng sự, 2003). Hơn nữa, các tác giả báo cáo rằng diosgenin bảo vệ chống độc tính của ethanol là bằng cách điều hòa peroxid hóa lipid và tình trạng chống oxy hóa (Thirunavukkarasu et al., 2003). Điều trị bằng dược liệu giàu diosgenin làm giảm trọng lượng gan và giảm gan nhiễm mỡ trong chuột Zucker béo phì (Raju và Bird, 2006). Cơ chế chính kiểm soát gan nhiễm mỡ là thông qua việc hạ thấp yếu tố hoại tử khối u huyết tương (TNF) –α – một cytokine tiền viêm và giảm tổng lượng chất béo và triglycerides trung tính trong gan (Raju và Bird, 2006).

4. Chống u

Có một số nghiên cứu đã đề cập đến tiềm năng điều hòa khối u in vivo của diosgenin. Diosgenin ức chế sự hình thành của các tuyến giống như ống bất thường trong niêm mạc đại tràng và trực tràng (ACF), tổn thương tiền ung thư giả định gây ra bởi azoxymethane (AOM) trên chuột F344. Khả năng ức chế của diosgenin trên cả tổng số ACF và độ lớn của ACF gợi ý rằng nó có hiệu quả có thể ngăn ngừa, làm chậm và ngừng sự xuất hiện và tăng trưởng của tổn thương tiền ung thư ở đại tràng (Raju et al., 2004). Hơn nữa, liều thấp hơn 0,05% có hiệu quả tương đương với liều cao hơn 0,1% trong việc ngăn chặn sự hình thành ACF (Raju et al., 2004). Trong một nghiên cứu mù đôi được thiết kế để đánh giá tiềm năng điều chỉnh khối u của diosgenin bằng cách sử dụng chuột F344 được tiêm AOM, Malisetty et al. (2005) báo cáo rằng 0,1% diosgenin ức chế tỷ lệ mắc ung thư biểu mô đại tràng xâm lấn và không xâm lấn lên đến 60% (Malisetty và cộng sự, 2005). Ngoài ra, diosgenin làm giảm sự nhân lên của khối u đại tràng (adenocarcinomas / chuột) so với nhóm đối chứng. Một phần, những hiệu ứng in vivo này đã được hiển thị liên quan đến chỉ số kháng nguyên nhân tế bào (PCNA) tăng sinh thấp hơn trong các khối u đại tràng gợi ý rằng diosgenin làm suy giảm sự tăng sinh tế bào khối u (Malisetty et al., 2005). Diosgenin đã được chứng minh là làm giảm quá trình viêm trong các mô hình động vật có liên quan. Ví dụ, diosgenin giảm viêm ruột cấp tính và bình thường hóa sự bài tiết mật trong viêm ruột do indomethacin gây ra ở chuột (Yamada et al., 1997). Vai trò của viêm mãn tính đối với quá trình sinh ung thư là rất quan trọng (Dinarello, 2006); do đó nghiên cứu của Yamada et al. (1997) chứng minh khả năng của diosgenin có hiệu quả điều trị viêm có thể được ngoại suy ra tác dụng hóa trị tương lai của nó chống lại ung thư [8].

5. Tác dụng khác

Nần nghệ có tác dụng giải độc, tiêu thũng, tán ứ, chỉ thống, khu phong trừ thấp. Vì vậy Nần nghệ thường được sử dụng trong điều trị đau xương khớp do phong thấp, đau lưng gối, viêm đường tiết niệu, bạch đới, rắn cắn [2].

Một số công trình nghiên cứu về thảo dược quý Nần nghệ đã được công bố:

Tiếng việt

1Diosgenin trong Nần nghệ, Dược học, số 2/1983

2Nghiên cứu một số loài Dioscorea ở Việt Nam nhằm tìm nguồn nguyên liệu diosgenin. Luận án Phó tiến sĩ dược học, Liên xô 1985

3Động thái tích lũy diosgenin trong Dioscorea collettiiHook.f, Farmasia (LX), số 1/1986.

4Điều tra trữ lượng cây Nần nghệ (Dioscorea collettiiHook.f). Công trình nghiên cứu khoa học y dược, 1986.

5Diosgenin trong một số loài Dioscorea ở Việt Nam. Công trình nghiên cứu khoa học y dược, 1986.

6. Đỗ Thị Bích Thủy (1987), Bước đầu nghiên cứu chế phẩm từ Nần nghệ, chuyên đề tốt nghiệp Dược sĩ đại học

7. Nguyễn Minh Thư (1989), Nghiên cứu thành phần hóa học của chế phẩm từ Nần nghệ(Dioscorea collettii Hook. f.), chuyên đề tốt nghiệp Dược sĩ đại học

8Một số đặc điểm của dược liệu Nần nghệ và chế phẩm Diosgin. Tóm tắt các công trình nghiên cứu khoa học đại học Dược Hà Nội 1986-1990.

9Khảo sát độc tính của Nần nghệ. Dược học, số 2/1991

10Khảo sát một số tác dụng dược lý của Nần nghệ. Dược học, số 5/1991

11Nhận định bước đầu tác dụng hạ các thành phần lipoprotein máu cao của Diosgin. Tạp chí y học thực hành, số 3/1992.

12. Trần Thị Tuyết (1992), Tiếp tục nghiên cứu  chế phẩm Diosgin từ Nần nghệ (Dioscorea collettii Hook. f. Dioscoreaceae, Công trình tốt nghiệp Dược sĩ

13Thuốc Diosgin từ Nần nghệ Dioscorea collettii Hook.f, Đề tài nghiên cứu cấp trường, 1995

14. Nguyễn Thị Lệ Hà (2016), “Nghiên cứu hiệu quả điều trị rối loạn Lipid máu của Viên hoàn cứng Hamomax (chiết xuất từ Nần nghệ)“, Luận văn Bác sỹ chuyên khoa Cấp II – Bệnh viện Y học Cổ truyền Trung ương.

Tiếng nước ngoài

15. Yang Minghe (1983), Steriidal sapogenins in Dioscorea collettii, Planta Medica, V. 49, p. 36-42

16. Игуен Хоанг (1985), Изучениенекотоых представителей рода Dioscorea L. Флоры вьетнама как источников диосгенина, Диссертация на соискание ученой степени кандидата фармацевтических наук, c. 128-129

Tài liệu tham khảo

  1. Sách đỏ Việt Nam, tập 2, 1996, trang 391-392
  2. Dược điển Việt Nam V, tập 2.
  3. Hoàng Kim Huyền và cộng sự, Khảo sát sơ bộ một số tác dụng dược lý của Nần nghệ.
  4. Trương Thị Mai Vân, Hiệu quả của viên hoàn Hamomax điều trị rối loạn lipid máu thể tỳ hư đàm thấp.
  5. Ryan E. Temel, Diosgenin stimulation of fecal cholesterol excretion in mice is not NPC1L1 dependent.
  6. In Suk SON, Antioxidative and Hypolipidemic Effects of Diosgenin, a Steroidal Saponin of Yam (Dioscorea spp.), on High-Cholesterol Fed Rats.
  7. M.N.Cayen, D.Dvornik, Combined effects of clofibrate and diosgenin on cholesterol metabolism in rats.
  8. Jayadev Raju và Chinthalapally V. Rao, Diosgenin, a Steroid Saponin Constituent of Yams and Fenugreek: Emerging Evidence for Applications in Medicine.
]]>
http://nannghe.vn/nan-nghe-339/feed/ 0
Khoẻ lại sau nhiều năm mỡ máu và trải qua một lần tai biến http://nannghe.vn/khoe-lai-sau-24-nam-bi-tang-huyet-ap-va-trai-qua-mot-lan-tai-bien-364/ http://nannghe.vn/khoe-lai-sau-24-nam-bi-tang-huyet-ap-va-trai-qua-mot-lan-tai-bien-364/#respond Tue, 21 Apr 2020 03:08:30 +0000 http://nannghe.vn/?p=364 Đến thôn Nhang, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm, Hà Nội hỏi thăm bác Đỗ Thị Tỵ ai cũng biết, bởi tính gần gũi thân thiện với mọi người và luôn tích cực tham gia mọi phong trào hoạt động của thôn, xã. Nhìn thấy bác không ai nghĩ rằng bác đã qua cái tuổi 74, đang chung sống hòa bình với căn bệnh mỡ máu đã nhiều năm và còn trải qua một lần tai biến. Bác mời chúng tôi vào nhà uống nước chè xanh và chúng tôi được nghe bác chia sẻ câu chuyện về bệnh mỡ máu của mình.

Năm 2019 trong 1 lần tình cờ đi khám bệnh do bị đau khớp ở chân, bác phát hiện ra bị mỡ máu cao, huyết áp cũng cao lên đến 180/110. Bác kể: “Tâm lý tôi hoang mang lo sợ nên thường xuyên bị mất ngủ, đau đầu, căng thẳng. Tôi không thể nhớ nổi đã đi hết bao nhiêu viện, gặp bao nhiêu thầy lang và sử dụng qua bao nhiêu loại thuốc. Lúc nào cũng phải sống trong tâm trạng lo lắng, những biến chứng có thể xảy đến bất ngờ vì bản thân tôi đã được chứng kiến những người xung quanh bị tai biến do bệnh mỡ máu, cao huyết áp, hậu quả rất nặng nề, người thì chết, người thì liệt.”

Cuối năm 2019, buổi sáng bác đang quét nhà thì thấy người chóng mặt rồi ngã khụy xuống, bác được bác sỹ chẩn đoán bị tai biến mạch máu não. Miệng bị méo sang một bên, chân tay một bên yếu, đi lại khó khăn. Sau điều trị ở viện 15 ngày thì bệnh dần hồi phục. Bác chia sẻ: “Tôi về nhà tuy vẫn đi lại được nhưng không đi được đúng hướng như mình muốn, cùng với những cơn đau đầu chóng mặt hành hạ làm cho tôi càng mệt mỏi tuyệt vọng. Tôi mất ngủ triền miên, hàng đêm thức trắng, mỡ máu lên cao và huyết áp lại càng thất thường không ổn định. Các loại thuốc sử dụng khi ấy không những không hiệu quả mà còn gây ho nhiều khiến tôi ngày càng tiều tụy, không khí gia đình cũng ngày một nặng nề.”

Hồi ấy, bác chỉ ngồi ở nhà nên hay xem ti vi, bác kể: “Tình cờ tôi xem được chương trình Lắng nghe cơ thể bạn nói về bệnh mỡ máu, cao huyết áp và được các bác sĩ chia sẻ về các loại thảo dược quanh ta giúp trị bệnh, làm cho ngủ được, giúp giảm mỡ máu, ổn định huyết áp và lại phòng ngừa được tai biến. Nghe mừng lắm nên nhớ như in từng lời bác sĩ nói: Giảo cổ lam còn được gọi là sâm nam, là bài thuốc cổ phương quý với hơn 3000 tuổi được dùng hàng ngày để nâng cao tuổi thọ con người và phòng tránh bệnh tật hiệu quả. Giúp giải quyết toàn diện các vấn đề của tim mạch và biến chứng bệnh tiểu đường: giảm mỡ máu, giảm cholesterol toàn phần, ngăn ngừa xơ vữa mạch máu, ổn định huyết áp và giảm đường huyết.

Hòe hoa nổi tiếng trong y học cổ truyền và y học hiện đại nhờ chất Rutin có khả năng hạ và ổn định huyết áp cao hữu hiệu và bảo vệ thành mạch rất hiệu quả lại an toàn giúp phòng ngừa tai biến mạch máu não, chống xuất huyết…

Nần nghệ là 1 trong số ít dược liệu được đưa vào danh mục dược liệu quý hiếm trong “Sách đỏ Việt Nam” vì sự quý hiếm và những giá trị chữa bệnh quan trọng mà nó mang lại như: hạ mỡ dư thừa trong máu; giảm gan nhiễm mỡ; bình ổn huyết áp…”

 Bác nghe đến đâu ghi lại đến đó và nhờ cô cháu gái am hiểu công nghệ tìm hiểu thêm và mua theo các dược liệu ấy về dùng. Cô cháu mua về 1 sản phẩm chứa đúng 3 dược liệu ấy về, dùng được 3 hộp bác thấy đầu đỡ căng và bắt đầu ngủ được, người đỡ mệt nhẹ hõm hơn. “Sau 1 tháng sử dụng thì mỗi đêm tôi ngủ được 5-6 tiếng, người hết mệt, cơn đau đầu hết dần, người nhẹ nhõm hơn hẳn. Tôi dùng sản phẩm này từ tháng 2/ 2020 đến nay và từ đó tôi đã ngủ được bình thường hàng đêm, ngủ ngon sâu giấc, huyết áp tôi nhờ thế cũng ổn định mức 130/80 tinh thần thoải mái, và mừng nhất là đi kiểm tra lại các chỉ số mỡ máu đã về ngưỡng cho phép. Sau 1 năm thì tôi hết méo miệng, chân tay khỏe, đi lại bình thường, còn bây giờ thì khỏe mạnh như các cháu thấy đấy.” (cười).

Bác tươi cười bảo với chúng tôi: “Các cụ nói cấm có sai, có những cái đến già mình mới nhận ra. Tiền có thể kiếm nhiều, nhưng sức khỏe thì không thể mua được. Có sức khỏe thì mới có niềm vui, hạnh phúc và mới cảm thấy cuộc sống ý nghĩa”.

Bác còn chia sẻ: “Giờ tôi đã thoát được nỗi lo đeo bám suốt bao nhiêu năm qua. Giờ thì lúc nào tôi cũng phải dự phòng sản phẩm này ở trong nhà. Có nhiều người bị như tôi ,tôi đã giới thiệu cho họ và đều thấy hiệu quả”.

Gặp bác trong những ngày giáp Tết này, không ai còn nhận ra người phụ nữ ấy từng bị tai biến. Trong niềm vui tuổi già, bác rôm rả: “Cả ngày lo hết việc nhà cho con cháu là chạy đi chạy lại sinh hoạt câu lạc bộ, phong trào thôn xóm, rồi thăm quan. Thấy mình trẻ lại nhiều lắm cháu ạ”. Nói rồi, bác tươi cười chào chúng tôi vì đang vội lo chuẩn bị một bữa cơm trưa tươm tất cho cả nhà.

]]>
http://nannghe.vn/khoe-lai-sau-24-nam-bi-tang-huyet-ap-va-trai-qua-mot-lan-tai-bien-364/feed/ 0
Chẳng sợ cặp sát thủ “mỡ máu – huyết áp”, tôi sống vui khỏe nhờ cách này http://nannghe.vn/chang-so-cap-sat-thu-mo-mau-huyet-ap-toi-song-vui-khoe-nho-cach-nay-361/ http://nannghe.vn/chang-so-cap-sat-thu-mo-mau-huyet-ap-toi-song-vui-khoe-nho-cach-nay-361/#respond Tue, 21 Apr 2020 03:02:38 +0000 http://nannghe.vn/?p=361 Bác Lê Văn Sách (72 tuổi ở số 12 Trần Nhân Tông – Hà Nội) đã từng bị đột quỵ vì căn bệnh cao huyết áp và máu nhiễm mỡ. Tuy nhiên, gần đây bác Sách đã tìm ra giải pháp đơn giản giúp kiểm soát cặp sát thủ mỡ máu – huyết áp. Câu chuyện ngỡ như phép màu, bác Sách sẵn sàng chia sẻ qua bài viết dưới đây.

Theo lời kể của bác Sách, trước đây sức khỏe của bác hoàn toàn bình thường, rất ít khi ốm đau hay bệnh tật. Trong một lần qua nhà con gái chơi, bác ra ban công ngắm cảnh xong tự nhiên thấy hoa mắt chóng mặt, ngã khụy luôn ngoài đó. Con cái hốt hoảng đưa bác vào viện cấp cứu. Bác sĩ chẩn đoán, bác bị đột quỵ do tăng huyết áp đột ngột, chỉ số huyết áp là 180/100 mmhg và mức LDL cholesterol (xấu) là 5,6 mmol/L. Bác sĩ cũng chỉ ra, do mắc huyết áp cao kèm mỡ máu xấu nên bác rất dễ bị đột quỵ.

Đang khỏe mạnh, bỗng dưng bị đột quỵ, có nguy cơ đối mặt với “cửa tử” khiến bác Sách và cả gia đình vô cùng lo sợ. Bác Sách chia sẻ với chúng tôi: “Cứ tầm chiều tối là huyết áp của tôi tăng vọt lên 170-180 mmHg khiến đầu tôi đau như búa bổ, cảm giác xa xẩm mặt mày xuất hiện. Tôi vô cùng lo lắng, bởi nếu tình trạng này cứ kéo dài, nó sẽ còn gây nhiều biến chứng khác và tàn phá sức khỏe dần dần”.

Sức khỏe của bác Sách suy giảm rất nhiều, đi lại khó khăn và không làm được bất cứ việc gì trong nhà. Tuổi cao xong lại còn mắc nhiều bệnh tật cùng lúc, đặc biệt là huyết áp tăng cao nên người bác lúc nào cũng nôn nao, choáng váng rất khó chịu.

Bác Sách cho biết: “Tôi tích cực điều trị bệnh bằng nhiều cách. Dù vậy, huyết áp của tôi vẫn cao, chỉ số là 170 mmhg. Mỡ máu cũng chưa được cải thiện. Uống nhiều loại thuốc tây, tôi còn bị tác dụng phụ gây rối loạn tiêu hóa thường xuyên. Vì vậy tôi không uống thuốc tây đều nhưng cũng không dám bỏ hẳn thuốc vì sợ đột quỵ tái phát.”

 

“Có bệnh thì vái tứ phương”, ai mách cách nào bác Sách cũng thử áp dụng. Bác từng uống rất nhiều loại lá thuốc và thử chữa theo một số bài dân gian nhưng đều không có tiến triển tích cực. Điều trị không hiệu quả, bác Sách còn mắc thêm “tâm bệnh”, ngày nào cũng ủ rũ mệt mỏi vì lo sợ cơn đột ngụy ập đến bất cứ lúc nào.

Một lần con dâu mua biếu bác Sách một sản phẩm từ thảo dược vì bảo đi nghe hội thảo trong bệnh viện được chuyên gia đầu ngành dưới thiệu nên tin tưởng mua về cho bố dùng thử.

Lúc đầu tôi giận lắm vì cháu mua mà không hỏi ý kiến của tôi. Tôi đã uống bao nhiêu loại thuốc, toàn loại đắt tiền mà huyết áp vẫn không ổn địnhCon dâu dặn tôi vẫn phải uống thuốc tây và kết hợp thêm sản phẩm làm từ thảo dược này thì mới có tác dụng và để hạn chế được tác dụng phụ. Tôi không tin, hỏi kỹ là những thảo dược nào thì cháu mở cả phần ghi âm các giáo sư nói trong hội thảo ra cho nghe. Sản phẩm là sự kết hợp của 3 thảo dược hàng đầu trong việc điều trị mỡ máu và huyết áp cao từ Giảo cổ lam -à bài thuốc cổ phương quý với hơn 3000 tuổi được dùng hàng ngày để nâng cao tuổi thọ con người và phòng tránh bệnh tật hiệu quả. Giúp giải quyết toàn diện các vấn đề của tim mạch và biến chứng bệnh tiểu đường: giảm mỡ máu, giảm cholesterol toàn phần, ngăn ngừa xơ vữa mạch máu, ổn định huyết áp. Hòe hoa nổi tiếng trong y học cổ truyền và y học hiện đại nhờ chất Rutin có khả năng hạ và ổn định huyết áp cao hữu hiệu và bảo vệ thành mạch rất hiệu quả lại an toàn giúp phòng ngừa tai biến mạch máu não, chống xuất huyết… Nần nghệ là 1 trong số ít dược liệu được đưa vào danh mục dược liệu quý hiếm trong “Sách đỏ Việt Nam” vì sự quý hiếm và những giá trị chữa bệnh quan trọng mà nó mang lại như: hạ mỡ dư thừa trong máu; giảm gan nhiễm mỡ; bình ổn huyết áp”…

Nghe rõ ràng như thế yên tâm quá nên mỗi ngày bác uống 4 viên, uống trước khi ăn 30 phút. Bên cạnh đó, vẫn duy trì thuốc huyết áp và thuốc mỡ máu theo chỉ định của bác sĩ. Sau hai tháng, bác cảm nhận thấy có hiệu quả, người không nôn nao chóng mặt như trước nên gọi cho con dâu mua thêm để uống đều đặn.

“Con dâu dặn tôi phải ăn nhạt, hạn chế dầu mỡ, tăng cường ăn rau xanh và trái cây. Nên bỏ hẳn rượu bia. Cháu còn mua cho tôi máy tập để tôi vận động nhẹ nhàng ngay tại phòng”.

Sau gần 3 tháng điều trị theo phương pháp kết hợp thuốc tây (gồm cả thuốc huyết áp và mỡ máu) với sản phẩm được giáo sư giới thiệu và chú ý hơn trong ăn uống, tập luyện, gần đây bác Sách đi kiểm tra lại thì tất cả các chỉ số đã về mức bình thường.

Chỉ số huyết áp giảm từ 170 xuống còn 130 mmHg, chỉ số mỡ máu cũng giảm, còn hơn 2 mmol/L. Bác sĩ giải thích, bệnh mỡ máu và cao huyết áp có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Máu nhiễm mỡ làm tăng độ nhớt của máu – một yếu tố góp phần gây tăng huyết áp. Tăng huyết áp lại làm tổn thương nội mô mạch máu, các LDL dư thừa trong máu dễ dàng xâm nhập và làm nặng hơn tình trạng xơ vữa. Mỡ máu và tăng huyết áp vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của nhau. Cả hai bệnh đi cùng sẽ đẩy nhanh quá trình xơ vữa động mạch, gia tăng tỷ lệ tử vong do biến chứng như tai biến đột quỵ”.

Qua chia sẻ của bác Sách, tôi tìm hiểu thêm về sản phẩm bác đang dùng kết hợp từ 3 dược liệu đó thì thấy sản phẩm này đã có mặt từ lâu trên thị trường, được nhiều người tin dùng và toàn bộ thảo dược nguyên liệu đều có vùng trồng theo tiêu chuẩn quốc tế nên rất yên tâm.

]]>
http://nannghe.vn/chang-so-cap-sat-thu-mo-mau-huyet-ap-toi-song-vui-khoe-nho-cach-nay-361/feed/ 0